Ở Nhật quý khách dạng, nhiều khi người ta nói bằng đôi mắt nhiều hơn bằng mồm.
Câu thành ngữ trên có nhẽ đã thể hiện mối quan hệ khăng khít của người dân với những chiếc khẩu trang. Qua nhiều thế kỉ, việc đeo chúng ở nơi công cộng được coi như một phong tục của người dân xứ sở mặt trời mọc.
Khi Covid-19 bùng phát, nhiều nước khởi đầu quen với hình ảnh người dân đeo khẩu trang ra đường. Nhưng tại Nhật quý khách dạng, khẩu trang không chỉ được sử dụng thường xuyên, nhưng còn xuất hiện nhiều trong ngành thời trang và làm đẹp.
Người Nhật sáng tạo rất nhiều mẫu khẩu trang, có loại chống tia cực tím, ngăn mờ kính, giúp làm gọn mặt... Thậm chí, còn xuất hiện một thuật ngữ chỉ những phụ nữ đẹp khi đeo mặt nạ - masuku bijin. Họ cũng tổ chức cuộc thi xem ai nhìn lôi cuốn khi đeo khẩu trang.
Vào mùa hè khô nóng, việc đeo khẩu trang trở thành khó chịu. Nhật quý khách dạng nhanh chóng bắt kịp nhu cầu, sáng tạo ra những chiếc khẩu trang có tài năng "làm mát", bán với giá 690 yên (khoảng 150.000 đồng). Hồi tháng 5, một tổ chức đã cho ra đời những chiếc khẩu trang có thể chèn túi đá bên trong để giúp người đeo giải nhiệt. Chúng có giá 1.300 yên (gần 300.000 đồng) và 50.000 chiếc được tiêu thụ chỉ trong 2 tháng.
Để trả lời cho câu hỏi vì sao khẩu trang được sử dụng rộng rãi ở Nhật quý khách dạng, Tomotsu Hirai, một nhà sưu tập đồ sử dụng y tế cổ gợi ý nhìn lại lịch sử. Từ thời cổ kính, người dân đã biết sử dụng giấy hoặc lá cây thường xanh che mồm để ngăn hơi thở, tránh làm ám bẩn các đồ lễ quan yếu. Hiện nay, tại Yasaka (Kyoto) hay đền thờ Otori Grand (Osaka) vẫn tồn tại phong tục này. Vào thời Edo (1603-1868), tục lệ này dần phổ thông trong quần chúng.
Trong buổi phỏng vấn tại Tây Tokyo, Hirai lấy ra một quý khách dạng in khắc gỗ nhiều màu. Trên đó là hình những bệnh nhân mặc kimono đang được các thợ massage phục vụ, bên cạnh là một chưng sĩ và người châm cứu. Hirai cho biết: "Nếu quan sát kỹ, quý khách sẽ thấy một trong những bệnh nhân che mồm bằng một mảnh vải".
Theo Hirai, người Nhật khởi đầu sử dụng khẩu trang từ thời Minh Trị (1868-1912). lúc đầu, chúng được sử dụng do các công nhân mỏ, nhà máy, xây dựng... Năm 1879, một trong những chiếc khẩu trang sinh sản trong nước trước tiên được quảng cáo trên báo. Hirai có nguyên mẫu này, được bảo quản chu đáo trong một chiếc hộp với hoa văn cổ điển.
Ngành kinh doanh khẩu trang phát triển mạnh từ thời kỳ Taisho (1912-1926), khi nền kinh tế Nhật bùng nổ. Các nhà máy liên tục nhận các đơn hàng từ châu Âu sau thế chiến thứ nhất. Những chiếc khẩu trang làm từ da, nhung cùng các vật liệu khác được quảng cáo mạnh mẽ và tràn ngập thị trường.
Dịch cúm Tây Ban Nha (1918-1920), khiến gần nửa triệu người Nhật thiệt mạng, đã biến khẩu trang từ mặt hàng xa xỉ thành vật phẩm dân gian. Khi xác định được nguyên nhân lây truyền virus, mọi người khởi đầu đeo khẩu trang, tin rằng hành động này bảo vệ họ khỏi bệnh cúm. Áp phích được treo khắp nơi với khẩu hiệu: "Những người không đeo khẩu trang là liều lĩnh". Với những người không đủ tiền mua khẩu trang, họ được hướng dẫn tự làm tại nhà.
Khẩu trang trong những năm đầu thời Showa (1926-1989) rất gần với loại 3D ngày nay. Nhưng chúng bị thiếu hụt nghiêm trọng do phải dành vật liệu cho quân đội trong thế chiến thứ nhị. Do vậy, mọi người sử dụng khẩu trang làm từ băng gạc, đơn giản và rẻ hơn. Khi chiến tranh kết thúc, những chiếc khẩu trang này vẫn được sử dụng và coi như vật phẩm tiêu chuẩn. Chúng dần phát triển giống hơn với mẫu ngày nay, lấy màu trắng làm chủ đạo, mỏng mảnh, nhẹ, sử dụng một lần và có nếp gấp. "quá trình phát triển của khẩu trang khá rất dị ở Nhật quý khách dạng", Hirai nói.
ngày nay, Nhật quý khách dạng có hơn 57.000 ca nhiễm nCoV và hơn 1.100 ca tử vong. Nhiều người tin rằng, con số này có thể còn cao hơn nữa nếu người Nhật không có sẵn thói quen sử dụng khẩu trang.
Khẩu trang la hét trong công viên tiêu khiển
Anh Minh (Theo Japan Times)
No comments:
Post a Comment